HĐND - Sáng 7/1, trong phiên thảo luận tại Hội trường, đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái Khang Thị Mào đã tham gia ý kiến thảo luận về Quy hoạch tổng thể quốc gia: Vấn đề quy hoạch an ninh nguồn nước quốc gia.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái Khang Thị Mào tham gia ý kiến thảo luận tại Hội trường
Nội dung thảo luận như sau:
Vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai bởi các lý do sau:
- Mặc dù có 3.450 con sông, suối với chiều dài từ 10km trở lên, với tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm hiện nay khoảng 840 tỷ m3 nhưng khoảng 60% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ nên chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước.
- Hệ sinh thái rừng của cả nước có sự mở rộng liên tục về diện tích song chất lượng rừng suy giảm. Mặc dù tỷ lệ che phủ đạt 42,01% nhưng diện tích rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy thấp, chỉ có gần 0,77 triệu ha là rừng giàu, tương đương 5,2% tổng diện tích rừng cả nước, diện tích rừng gỗ trung bình là 2,165 triệu ha (tương đương 21,1%); còn lại là các hệ sinh thái rừng nghèo, nghèo kiệt.
- Biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan đã tạo ra những biến đổi khó lường, tình trạng hạn hán kéo dài ở một số tỉnh Nam Trung Bộ; nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm ngập mặn ở nhiều tỉnh Tây Nam Bộ tác động lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Mặc dù thiếu nước song hiệu quả sử dụng nước còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới, việc ứng dụng công nghệ tiết kiệm nước còn hạn chế trong sản xuất nông nghiệp. Tình trạng thiếu nước xảy ra thường đi cùng với mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực và mâu thuẫn này có xu hướng gia tăng
- Quá trình đô thị hóa với tốc độ cao, dân số tăng nhanh làm gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước nhất là tại đô thị, khu công nghiệp, khu vực hạ nguồn của lưu vực nhiều con sông.
- Vấn đề an toàn đập, hồ chứa nước cũng là một nhiệm vụ cấp bách do sự phát triển của hệ thống thủy lợi, thủy điện của Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, nhiều công trình thủy lợi trong đó có nhiều hồ chứa bị xuống cấp ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất, tính mạng và tài sản của nhân dân, cần được đặc biệt quan tâm chú trọng.
- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch tài nguyên nước còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn; tính liên kết, liên thông mang tính vùng, khu vực còn nhiều hạn chế. Công tác tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy hoạch chưa thật tốt, vẫn còn tình trạng phá vỡ quy hoạch, không bảo vệ được quy hoạch, việc lấn chiếm hành lang bảo vệ lưu vực sông, nguồn nước, dòng chảy, công trình thủy lợi, thủy điện, đê điều vẫn diễn ra.
Tôi cơ bản tán thành với các quan điểm về tổ chức không gian phát triển trong đó có đặt ra yêu cầu: Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; bảo vệ môi trường và chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 2 này, tôi đề nghị Chính phủ một số nội dung sau:
(1) Sớm hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến tài nguyên nước theo Kết luận số 36 ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị.
(2) Thực hiện một kế hoạch đầu tư dài hạn của ngân sách nhà nước đối với công tác bảo vệ, kiểm soát nguồn nước, hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch, trong đó ưu tiên nhiệm vụ cấp, trữ nước, chuyển nước cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng lớn do biến đổi khí hậu. Trước mắt bố trí đủ nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp một số hồ, đập bị hư hỏng nặng, bảo đảm an toàn hồ, đập trước các mùa mưa lũ.
Bên cạnh nguồn lực từ ngân sách nhà nước, cần thực hiện cơ chế thị trường đối với giá dịch vụ nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước tính đủ theo quy định của Luật Thủy lợi về giá nước phục vụ sản xuất và đời sống, song có lộ trình hỗ trợ hợp lý cho nông dân, cho hộ nghèo, hộ yếu thế theo xu thế giảm dần sự bao cấp của nhà nước.
(3) Tăng cường công tác bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn; sớm nghiên cứu nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng phù hợp với chất lượng từng loại rừng thông qua việc đa dạng hóa và mở rộng các nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng phù hợp với quy định của pháp luật để khuyến khích người dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng, nhất là tại các địa phương miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên là nơi có tỷ lệ che phủ rừng cao.
Ban Biên tập
HĐND - Sáng 7/1, trong phiên thảo luận tại Hội trường, đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái Khang Thị Mào đã tham gia ý kiến thảo luận về Quy hoạch tổng thể quốc gia: Vấn đề quy hoạch an ninh nguồn nước quốc gia. Nội dung thảo luận như sau:
Vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai bởi các lý do sau:
- Mặc dù có 3.450 con sông, suối với chiều dài từ 10km trở lên, với tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm hiện nay khoảng 840 tỷ m3 nhưng khoảng 60% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ nên chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước.
- Hệ sinh thái rừng của cả nước có sự mở rộng liên tục về diện tích song chất lượng rừng suy giảm. Mặc dù tỷ lệ che phủ đạt 42,01% nhưng diện tích rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy thấp, chỉ có gần 0,77 triệu ha là rừng giàu, tương đương 5,2% tổng diện tích rừng cả nước, diện tích rừng gỗ trung bình là 2,165 triệu ha (tương đương 21,1%); còn lại là các hệ sinh thái rừng nghèo, nghèo kiệt.
- Biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan đã tạo ra những biến đổi khó lường, tình trạng hạn hán kéo dài ở một số tỉnh Nam Trung Bộ; nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm ngập mặn ở nhiều tỉnh Tây Nam Bộ tác động lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Mặc dù thiếu nước song hiệu quả sử dụng nước còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới, việc ứng dụng công nghệ tiết kiệm nước còn hạn chế trong sản xuất nông nghiệp. Tình trạng thiếu nước xảy ra thường đi cùng với mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực và mâu thuẫn này có xu hướng gia tăng
- Quá trình đô thị hóa với tốc độ cao, dân số tăng nhanh làm gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước nhất là tại đô thị, khu công nghiệp, khu vực hạ nguồn của lưu vực nhiều con sông.
- Vấn đề an toàn đập, hồ chứa nước cũng là một nhiệm vụ cấp bách do sự phát triển của hệ thống thủy lợi, thủy điện của Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, nhiều công trình thủy lợi trong đó có nhiều hồ chứa bị xuống cấp ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất, tính mạng và tài sản của nhân dân, cần được đặc biệt quan tâm chú trọng.
- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch tài nguyên nước còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn; tính liên kết, liên thông mang tính vùng, khu vực còn nhiều hạn chế. Công tác tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy hoạch chưa thật tốt, vẫn còn tình trạng phá vỡ quy hoạch, không bảo vệ được quy hoạch, việc lấn chiếm hành lang bảo vệ lưu vực sông, nguồn nước, dòng chảy, công trình thủy lợi, thủy điện, đê điều vẫn diễn ra.
Tôi cơ bản tán thành với các quan điểm về tổ chức không gian phát triển trong đó có đặt ra yêu cầu: Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; bảo vệ môi trường và chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 2 này, tôi đề nghị Chính phủ một số nội dung sau:
(1) Sớm hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến tài nguyên nước theo Kết luận số 36 ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị.
(2) Thực hiện một kế hoạch đầu tư dài hạn của ngân sách nhà nước đối với công tác bảo vệ, kiểm soát nguồn nước, hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch, trong đó ưu tiên nhiệm vụ cấp, trữ nước, chuyển nước cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng lớn do biến đổi khí hậu. Trước mắt bố trí đủ nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp một số hồ, đập bị hư hỏng nặng, bảo đảm an toàn hồ, đập trước các mùa mưa lũ.
Bên cạnh nguồn lực từ ngân sách nhà nước, cần thực hiện cơ chế thị trường đối với giá dịch vụ nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước tính đủ theo quy định của Luật Thủy lợi về giá nước phục vụ sản xuất và đời sống, song có lộ trình hỗ trợ hợp lý cho nông dân, cho hộ nghèo, hộ yếu thế theo xu thế giảm dần sự bao cấp của nhà nước.
(3) Tăng cường công tác bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn; sớm nghiên cứu nâng mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng phù hợp với chất lượng từng loại rừng thông qua việc đa dạng hóa và mở rộng các nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng phù hợp với quy định của pháp luật để khuyến khích người dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng, nhất là tại các địa phương miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên là nơi có tỷ lệ che phủ rừng cao.